Nghiệp vụ tự bảo hiểm tiền tệ

Nghiệp vụ tự bảo hiểm tiền tệ là quá trình mà các doanh nghiệp và tổ chức tài chính tự đảm bảo và quản lý rủi ro liên quan đến biến động giá trị tiền tệ trong các giao dịch quốc tế, nhằm đảm bảo ổn định tài chính và bảo vệ khỏi rủi ro tiền tệ. Cố gắng tránh thua lỗ do những dao động tỉ giá hối đoái.

Nghiệp vụ tự bảo hiểm tiền tệ

I. Tự bảo hiểm tiền tệ phòng trước

Việc này được thực hiện trên thị trường ngoại hối và nó liên quan đến một hợp đồng giữa WWC với một bên để chuyển một số cố định bằng loại tiền này cho bên đó đổi lấy số tiền cố định bằng loại tiền khác vào thời hạn thỏa thuận. Những hợp đồng bằng những loại tiền tệ của các nước thương mại lớn thường được chuyển trong vòng 30, 60, 90 hoặc 180 ngày. Những hợp đồng dài hạn hơn đôi khi có thể đàm phán.

Lấy một thí dụ như sau: Một nhà xuất khẩu Mỹ bán một lượng hàng hóa giá trị 1 triệu Mỹ kim cho một nhà nhập khẩu Na Uy. Tỷ giá hối đoái vào ngày bán là 5 đồng Curon NaUy ăn một đô la Mỹ (NK5 = US$1) và tổng cộng đổi được 5 triệu Curon (NK). Như vậy theo thỏa thuận nhà nhập khẩu phải trả cho nhà xuất khẩu 5 triệu Curon NaUy trong 180 ngày.

Tự bảo hiểm tiền tệ phòng trước

Bất cứ rủi ro nào trong việc thay đổi tỉ giá hối đoái giữa đồng đô la Mỹ và đồng Curon NaUy bấy giờ do nhà xuất khẩu Mỹ gánh chịu. Giả dụ, nếu đồng Curon mất giá xuống 7 Curon = US$1 trong suốt khoảng thời gian 180 ngày, thì 5 triệu Curon chỉ mua được 714.285,71 USD lúc nhận. Nhưng nhà nhập khẩu Mỹ lại muốn nhận 1 triệu USD và tỷ giá hối đoái khiến thiệt hại hơn 285.000 USD.

* (WWC: Công ty đa quốc gia)

II. Tự bảo hiểm liên quan đến một hợp đồng

Nhà xuất khẩu Mỹ có thể sử dụng tự bảo hiểm trước để tránh sự thua lỗ như thế bằng việc hợp đồng vào thời gian bán để bán 5 triệu Curon cho người mua thứ 3 trong 180 ngày để đổi lấy 1 triệu USD mà bên này đồng ý chuyển đến WWC cùng thời gian. Số tiền thực mà nhà xuất khẩu nhận được sẽ ít hơn 1 triệu USD bởi vì bên thứ 3 liên quan đến hợp đồng tự bảo hiểm sẽ yêu cầu khoản đền bù cho sự mất giá đồng Curon trong suốt thời gian 180 ngày. Nếu bên thứ 3 yêu cầu 1% thì nhà xuất khẩu phải chấp thuận. 1% đó tính ra là 10.000 USD và bên thứ 3 sẽ chuyển 990.000 USD để đổi lấy 5 triệu Curon.

10.000 USD này được xem là tiền đóng bảo hiểm mà nhà xuất khẩu phải trả để biết chắc số USD nhận được là bao nhiêu trong 180 ngày. Dĩ nhiên, nhà xuất khẩu phải quyết định rằng 990.000 USD là số tiền có thể chấp nhận được khi bán số hàng hóa đó.

Với nhiều giá cả khác nhau trong một xã hội thị trường tự do, không có luật lệ hoặc quy định nào chỉ ra 1% hay 10.000 USD là giá cho một việc tự bảo hiểm 1 triệu USD. Trong thí dụ của chúng ta, người trưởng phòng tài chính giỏi của nhà xuất khẩu sẽ đi khắp các ngân hàng để tìm những giá thấp nhất, Curon NaUy không được mua bán trên thị trường tiền tệ Quốc Tế (IMM). Nếu loại tiền tệ chi trả này nằm trong 8 loại tiền tệ được mua bán ở đó thì người trưởng phòng tài chính nên tiến hành định giá cho một hợp đồng IMM. Những loại tiền tệ mậu dịch được ghi ở phần 18-1.

Hợp đồng IMM là một việc tự bảo hiểm hàng hóa bán sẽ giao sau. Nếu trưởng phòng tài chính sử dụng những hợp đồng IMM. Tự bảo hiểm sẽ đi với một hợp đồng bán hàng hóa sẽ giao sau (a futuacs) chứ không phải là hợp đồng đặt mua trước (a forward contract). Tại IMM, các loại tiền tệ mậu dịch được xem như hàng tiêu dùng (bột mì, đậu nành, thịt lợn, muối,,) và được mua bán như hợp đồng hàng hóa bán sẽ giao sau. Những hợp đồng hàng hóa bán sẽ giao sau được mua bán bởi các môi giới và nhà xuất khẩu phải có một tài khoản phụ) (Margiu account). Với một người môi giới những hợp đồng như vậy phải thực hiện bằng những khoản tiền cố định, ví dụ 25.000 bảng Anh và thời hạn giao hàng tiêu chuẩn được sử dụng quyền mua bán cổ phần tiền tệ (Curreney options). Vào cuối năm 1982, Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia (Philadelphia Stock Exchange) bắt đầu cho phép quyền mua bán cổ phần tiền tệ. Họ cũng ưu đãi một cơ hội tự bảo hiểm khác mà được khuếch đại trong ít nhất 2 năm kể từ đó. Trước tiên, các sở giao dịch chứng khoán khác đã bắt đầu cho mua bán cổ phần tiền tệ trong thành phố London, Chicago, Ainsterdam, New York và những thành phố khác. Sau đó hình thành một thị trường mua bán cổ phần toàn diện bao gồm các ngân hàng, các công ty đa quốc gia và các môi giới.

Tự bảo hiểm liên quan đến một hợp đồng

1. Tự bảo hiểm nội bộ

Một thực tế đang ngày càng phổ biến là các công ty đa quốc gia cần đến việc tự bảo hiểm nội bộ trong mạng lưới gồm công ty mẹ và các công ty chi nhánh. Giả sử trong trường hợp Curon-USD của chúng ta, trưởng phòng tài chính thấy rằng một trong những công ty WWC nợ khoảng 5 triệu Curon có thể trả được cùng khoảng thời gian mà 5 triệu Curon nhận được theo hợp đồng xuất khẩu. Số Curon có thể trả được bằng một đơn vị WWC lúc đó có thể được bảo hiểm trước số Curon nhận được thực hiện bằng đơn vị WWC khác.

Như vậy, hai việc bảo hiểm đạt được với giá nội tại và các chi phí ngân hàng, mua cổ phần hoặc IMM có thể tránh được.

2. Tình trạng được bảo hiểm (A covered position)

Mặc dù nhà xuất khẩu trong thí dụ tự bảo hiểm trước nói trên không có tiền Curon nào vào thời điểm ông ta tham gia hợp đồng tự bảo hiểm, ông ta cũng có giao ước của nhà nhập khẩu NaUy để trả 5 triệu Curon mà có thể chuyển cho bên thứ 3 liên quan đến hợp đồng tự bảo hiểm. Nếu bạn có tài chính (5 triệu Curon) khi tham gia hợp đồng hoặc số tài chính này là tiền nợ từ một thương vụ khác vào hoặc trước ngày trả theo hợp đồng tự bảo hiểm (như ở đây), bạn đang ở tình trạng "được bảo hiểm”

3. Tình trạng không được bảo hiểm (A uncovered position)

Một trưởng phòng tài chính cũng có thể sử dụng thị trường ngoại hối để tận dụng sự tăng hoặc giảm giá trị tiền tệ. Thí dụ, nếu trưởng phòng tài chính của một công ty Mỹ nghĩ rằng đồng Curon sẽ tăng giá vào vài tháng tới, thủ tục sẽ phải tiến hành lâu trên đồng Curon với giá trả ngay là 5 Curon = 1 USD. Đây là một hợp đồng thông qua đó công ty mua 5 Curon cho một USD, cả 2 loại tiền tệ này được chuyển cùng một thời hạn tương lai. Nếu đồng Curon tăng lên 4 Curon = 1 USD, người trưởng phòng tài chính này thành công và 5 triệu Curon được nhận bởi công ty sẽ đáng giá 1.250.000 USD. Theo thỏa thuận, công ty chỉ trả 1 triệu USD. Nếu trưởng phòng tài chính nghĩ rằng đồng Curon sẽ hạ giá trong vài tháng trời, thủ tục sẽ phải ngắn lại cho đồng Curon ở giá trả ngay. Bán non (Short) tiền hay bất cứ mặt hàng nào là bán nó mà khi chưa có nó trong tay hoặc cho nợ đến một thương vụ khác.

Sử dụng cùng tỷ giá (5 Curon =1 USD) và cùng số tiền (5 triệu Curon), công ty đồng ý giao 5 triệu Curon vào thời hạn trả sau để nhận 1 triệu USD. Trên thực tế, nếu đồng Curon giảm giá xuống 6 Curon =1 USD, trưởng phòng tài chính lại thành công một lần nữa. Công ty có thể mua 5 triệu Curon cho khoảng 830.000 USD. Theo thỏa thuận công ty sẽ được trả một triệu USD.

Các trường hợp trên đều có kết quả tốt, tuy nhiên công ty đã tự mạo hiểm. Sự chuyển động giá trị tiền tệ ngắn hạn hết sức mong manh ở cả phương hướng lẫn số lượng. Công ty này sẽ nhận hậu quả xấu nếu những loại tiền tệ này chuyển động theo những hướng khác. Những người nghiên cứu các thị trường tiền tệ và giao dịch với chúng hằng ngày có khuynh hướng khiêm tốn trong việc dự báo những chuyến động ngắn hạn.

Chúng tôi đã phỏng vấn và bàn luận với những nhân viên thị trường ngoại hối, những nhà doanh nghiệp ngân hàng và các nhà kinh tế ngân hàng ở Mỹ và Châu Âu. Tất cả họ đều nói rõ những ý kiến, quan điểm và dự báo chắc chắn về những thay đổi giá trị tiền tệ tạm thời, không ai trong số họ dám khẳng định về những giá cả ngày mai.

III. Tự bảo hiểm thị trường tiền tệ hoặc tín dụng

Theo tên gọi của nó, một hàng rào thị trường tiền tệ hoặc tín dụng bao gồm tín dụng, vay tiền. Công ty muốn một hàng rào gọi là người vay hàng rào thị trường tiền tệ hoặc tín dụng có thể được minh họa bởi cùng những dữ kiện được sử dụng ở trên để thảo luận hàng rào thị trường hối đoái trả trước.

Tự bảo hiểm thị trường tiền tệ hoặc tín dụng

Nhà xuất khẩu Mỹ sẽ được trả 5 triệu Curon bởi nhà nhập khẩu NaUy cho số hàng trong 180 ngày. Với hàng rào thị trường tiền tệ, nhà xuất khẩu sẽ vay 5 triệu Curon từ một ngân hàng Oslo vào ngày bán cho người nhập khẩu NaUy nhà xuất khẩu lập tức sẽ chuyển sang tiền đô la Mỹ với tỷ giá hiện hành 5 Curon = 1 USD đem lại cho ông ta 1 triệu USD giá bán, nhưng ông ta nợ 5 triệu Curon với ngân hàng NaUy, thời hạn 180 ngày. Số nợ đó sẽ được trả lại bằng 5 triệu Curon của nhà nhập khẩu NaUy.

Nhà xuất khẩu có nhiều quyền chọn lựa cho việc sử dụng 1 triệu đô la. Ông ta có thể cho vay, đưa vào các chứng từ ký quỹ? sử dụng nó trong trao đổi chéo, hoặc sử dụng nó như vốn hoạt động nội bộ. Trưởng phòng tài chính sẽ nghiên cứu tất cả các chọn lựa để xem sự chọn lựa nào là tối ưu.

Trước khi nghiệp vụ tự bảo hiểm tiền tệ được sử dụng, cần phải so sánh tỷ suất lãi trong các quốc gia của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu. Nếu lãi suất trong việc vay tiền của nhà xuất khẩu ở quốc gia nhà nhập khẩu cao hơn nhiều so với số tiền mà nhà xuất khẩu có thể kiếm được ở quốc gia ông ta, thì giá bảo hiểm loại này có thể quá lớn.

Cũng cần so sánh và kiểm tra trước khi vay đồng Curon từ một ngân hàng Oslo.

Mặc dù đồng Curon không phải là một trong những loại tiền tệ được mậu dịch rộng rãi, trưởng phòng tài chính nên hỏi thăm các ngân hàng ở các trung tâm tiền tệ lớn của Châu Âu (như London, Paris, Zurich và Frankfurt) để biết chính xác xem đồng Curon có thể được vay với lãi suất thấp hơn hay không.

Cũng như trong tình hình tự bảo hiểm thị trường ngoại hối, một WWC nên kiểm tra các đơn vị của nó để biết có đơn vị nào có cán cân đồng Curon mà có thể được vay nội bộ, tức là từ một đơn vị có cán cân đến đơn vị khó khăn về vấn đề ngoại hối. Như vậy, tiền lãi phải trả cho các ngân hàng ngoài WWC có thể tránh được.

IV. Việc gia tốc hay chậm trễ trong chi trả

Nếu bạn là một nhà nhập khẩu ở một quốc gia có loại tiền tệ được dự báo sắp hạ giá so với loại tiền tệ của người cung cấp nước ngoài của bạn, bạn cần nhanh chóng mua loại ngoại tệ cần thiết càng sớm càng tốt. Điều này có nghĩa nhà nhập khẩu phải trả bằng loại tiền tệ của nhà xuất khẩu, (trái với kết luận của chúng ta trong những cuộc thảo luận nghiệp vụ tự bảo hiểm tiền tệ).

Trên thực tế, số tiền được vay thường nhỏ hơn 5 triệu Curon. Nó là một số tiền mà khi cộng với số lãi suất trong 180 ngày sẽ bằng tổng số 5 triệu Curon ở cuối thời hạn này. Như vậy, tiền thanh toán 5 triệu Curon từ nhà nhập khẩu sẽ trả bằng số nợ, không có số tiền thừa thiếu nào cả.

Viết bình luận